Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
0969889270
khoanguvan@hpu2.edu.vn

ĐẶC TRƯNG NGÔN TỪ TRONG NHẬT KÝ NGUYỄN HUY TƯỞNG

ThS. Hoàng Thị Duyên


1. Mở đầu
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học bởi khả năng mã hóa thông tin bên trong lớp vỏ bọc của kí hiệu ngôn từ. Khi tiếp cận với bất kỳ tác phẩm văn học nào, người ta cũng phải bắt đầu từ lớp ngôn từ để đi sâu vào lớp hình tượng và thấy được lớp hàm nghĩa. Với quy trình ấy thì việc tìm hiểu ngôn từ là việc làm có ý nghĩa thiết thực khi tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt với một tác phẩm ở loại hình ký.

Nhật ký là một thể loại văn học tuy không còn mới mẻ nhưng lại chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng. Đặc biệt, những năm gần đây, sự xuất hiện một số cuốn nhật ký chiến tranh đã tạo nên hiệu ứng xã hội rộng lớn. Trong bối cảnh đó, năm 2006, bộ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng được xuất bản đã thu hút được sự quan tâm đông đảo của giới nghiên cứu cũng như công chúng yêu văn học. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu Ngôn từ trong trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng một mặt có ý nghĩa thiết thực đối với việc tìm hiểu về đặc trưng thể loại, mặt khác qua đó còn thấy được thực tiễn sáng tác của nhà văn, con người đáng kính của ông qua 30 năm cần mẫn và miệt mài lao động nghệ thuật. Song, trên hết, những trang nhật ký quý giá này vẫn có ý nghĩa tỏa sáng cho thế hệ trẻ trên nhiều phương diện như đạo đức, lý tưởng sống, trách nhiệm nghề nghiệp và hơn hết là trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.

2. Nội dung
Xuất phát từ những trang nhật ký ghi chép cá nhân hàng ngày nhưng rất nhiều trong số đó đã vượt khỏi tính chất của một cuốn nhật ký thông thường để trở thành nhật ký văn học bởi tính nghệ thuật của nó. Tính nghệ thuật này có thể biểu hiện rõ nét ở ý thức của nhà văn trong việc kiến tạo diễn ngôn “sự thật”, hoặc thể hiện qua một cái nhìn mĩ học về những sự việc hàng ngày trong đời sống, và rõ nhất là ở sự gia công, trau chuốt ngôn từ để đạt đến tính thẩm mĩ.

2.1. Ngôn ngữ hướng nội
 Do sự quy định của đặc trưng thể loại, trong nhật ký, ngôn ngữ độc thoại nội tâm được xem như là yếu tố thứ nhất có vai trò chủ chốt trong việc hình thành thế giới mà người viết đã tạo nên. Nếu ngôn ngữ ở nhật ký thông thường chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự việc hàng ngày một cách tuần tự, máy móc thì ngôn ngữ trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng lại hoàn toàn khác. Đó là một dạng ngôn ngữ hướng nội và đa sắc thái.

Ngôn ngữ hướng nội cần hiểu là khuynh hướng ngôn ngữ chủ yếu hoặc hoàn toàn quan tâm đến đời sống tinh thần, nội tâm của bản thân người viết và đích trần thuật trước hết là hướng đến chính chủ thể trần thuật. Nhiệm vụ hàng đầu của loại ngôn ngữ này là hướng tới thế giới nội tâm con người và làm nổi bật cái “tiểu vũ trụ” thu nhỏ của bản thân người đó. Trong nhật ký nói chung và nhật ký Nguyễn Huy Tưởng nói riêng, hầu hết các trang viết đều hướng đến bản thân người viết, nó thuộc về cá nhân người viết, đó là những tâm tư, những thổ lộ mang đậm chất riêng tư. Qua mỗi trang nhật ký, ta như mở ra thêm một ô cửa mới để khi trang cuối cùng khép lại, ta đã hoàn thành việc chiếm lĩnh một bức chân dung hoàn chỉnh về một người công dân yêu nước, một người nghệ sĩ đa tài, một người con, một người chồng, một người cha… trong gia đình mà ở tư  cách  nào ông cũng xứng đáng là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.

Nguyễn Huy Tưởng viết nhật ký là để tự giãi bày. Hồi ức nhiều bạn bè, người thân của ông đều thống nhất ở một điểm: Ông là người cả nghĩ nhưng vụng nói, vụng ứng xử. Đời văn của ông cũng lắm gian truân, vui ít buồn nhiều… May sao, nhật ký là nơi ông ký thác được những tâm sự của mình một cách thoải mái nhất, thành thực nhất, sòng phẳng nhất. Nhật ký một ngày tháng 3 năm 1932 của ông có đoạn: “Tôi nhiều bạn, nhưng bạn yêu nhất của tôi tức là tôi vậy”. Và ông đã tìm đến người bạn này - tâm sự với chính mình - trong những trang nhật ký. Mà đã là với bạn, hơn nữa, bạn yêu nhất của mình thì còn có điều gì phải e ngại.
Cũng bởi tính chất hướng nội (hướng vào chính nội tâm, tâm hồn mình) mà nhật ký Nguyễn Huy Tưởng luôn xuất hiện đại từ “Tôi” với tần suất dày đặc. “Tôi” xuất hiện mọi lúc, mọi nơi, với nhiều trạng thái cảm xúc. “Tôi kể giao du với bạn thì nhiều. Ai kết bạn với tôi lúc đầu cũng có ý yêu mến tôi, mà tôi với người ấy lúc đầu cũng thân ngay. Vậy mà càng lâu, thì hai người càng gần nhau, lại càng xa cái lòng thân tín… Vậy đối với bạn, ta không nên có lòng cương cường quá, nên xử nhũn, nên chịu lỗi vào mình….” (Nhật ký ngày 6/1/1933). “Tôi có nhiều tư tưởng, tôi muốn có danh để tô mặt với đời, vậy mà tôi không có một chút nghị lực nào để thi hành cái mộng tưởng của tôi. Tôi sống rụt rè quá… Tôi không sống, nói cho đúng là tôi sống một cuộc đời không đáng sống, nghĩa là một cuộc đời không hoạt động chút nào. Tôi lãnh đạm vô cùng.” (Nhật ký ngày 27/7/1936). “ Tôi thường tức giận một cách ngấm ngầm các bạn trong sở… - họ có ý như khinh tôi… Giận thầm là một sự rất khốn nạn. Phải tỏ cho họ biết rằng mình không phải là một kẻ hèn, phải tỏ cho họ biết mình là một người có tài trí đáng kính phục”. (Nhật ký ngày 29/7/1936). “Bạn tôi nói đúng. Tôi không bao giờ được thư thái trong lòng. Tôi muốn yêu, tôi muốn giỏi, tôi muốn có danh, tôi muốn viết báo, làm văn, tôi muốn đỗ tú tài, tôi muốn giầu có để sung sướng. Cái gì tôi cũng muốn nhưng tôi không làm được cái gì…” (Nhật ký ngày 31/7/1936). “Trong sở, họ bắt tôi làm việc, tôi chịu cả. Họ không mấy khi bàn bạc với tôi. Thì ra tôi lờ mờ quá, hiền lành quá. Ở đời này, hiền lành không ăn thua. Phải sắc sảo khôn ngoan, thì người ta mới sợ.” (Nhật ký ngày 17/8/1936). “Tôi sống một cuộc đời cô độc, và sự kinh nghiệm về cuộc đời của tôi ít và nhẹ nhõm quá. Tôi lãnh đạm, và chẳng hiểu một tí gì về những cảnh đau khổ trong ấy đồng bào tôi đang vật vã. Mắt tôi không nhìn, tai tôi không nghe, óc tôi không nghĩ… Đó là cái sở đoản của tôi.” (Nhật ký ngày 23/11/1938). “Chủ sự vào buồng giấy. Thét, quát tháo, hạch lạc… Tôi muốn thoát ra cảnh giam hãm này… Tôi muốn giương cánh bay cao, mặc mưa gió, mặc đói rét, … nhưng bao nhiêu dây trần thế trói lấy cánh tôi, mà giữ tôi sống cái đời tù tội.” (Nhật ký ngày 21/2/1940). “Đến trường được một tháng. Kiểm thảo lại, thái độ vẫn chưa đúng. Không thấy sôi nổi tinh thần thi đua, tự động viên mình. Đối với anh em: dè dặt. (Nhật ký ngày 27/3/1952); “Về nhà quê là nhắc đến những ngày bất công của cải cách ruộng đất. Và lại thấy buồn.” (Nhật ký 2/2/1957)…

Những dòng độc thoại nội tâm trên góp phần tái hiện lại hiện thực tâm trạng của chủ thể trần thuật trong tác phẩm. Thông qua lời độc thoại, công chúng tiếp nhận sẽ hiểu rõ những góc khuất tâm trạng, những mâu thuẫn tâm lý được hình thành góp phần hoàn thiện cái tôi đa diện trong tác phẩm. Sẽ thật không mấy thú vị nếu như ta chỉ nhìn vào những lời đối thoại hay diễn cảnh ở bề nổi của văn bản, sẽ không thể hiểu hết bản chất của vấn đề nếu như chủ thể phát ngôn chỉ diễn xướng phần âm thanh mà bỏ qua tiếng nói của tâm trạng hay những ẩn khuất bên trong khó chạm tới chứa đằng sau sự xuề xòa dễ dãi. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng với những dòng ghi chép chân thực, hướng nội đã giúp bạn đọc thấy được cái “tiểu vũ trụ” thu nhỏ ẩn chứa bên trong chân dung giản dị của nhà văn.

2.2. Ngôn ngữ giàu cảm xúc
Có thể nói, cảm xúc chính là một đặc điểm quan trọng trong ngôn ngữ nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng. Là một người đam mê với văn chương, một lòng chuyên tâm sáng tác, tâm hồn bay bổng nên Nguyễn Huy Tưởng trong suốt quãng đời của mình đã cho ra đời nhiều tác phẩm giàu giá trị, giàu ý nghĩa, để tên tuổi của ông cho đến hôm nay vẫn sáng mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Khảo sát qua những trang nhật ký của ông, ta có thể thấy bằng ngôn ngữ trữ tình sâu lắng, những trang viết về mẹ, về vợ, về bạn bè đồng nghiệp, anh em dạt dào cảm xúc, những trang ca ngợi cảnh trí của đất nước trữ tình bay bổng… đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc.
Suốt dọc hơn 1.700 trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng, ta bắt gặp rất nhiều từ, cụm từ và câu cảm thán biểu hiện cảm xúc như: yêu; thương; nhớ; yêu quý; than ôi; trời ơi, hỡi ơi; hỡi ôi…
“Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm. Ngắm cảnh mưa xa, trông về quê hương mà tấm lòng rộn rã. Mẹ ta đương làm gì? Có lẽ đương lo chạy gạo, đương đi vay tiền. Mà tuổi già sáu mươi, mà mắc bệnh tê thấp… Đối với tôi, chỉ có tình mẹ là tuyệt đích. Tôi yêu mà tôi bất hiếu.” (Nhật ký ngày 25/10/1934). “Em tôi là một gái Đông phương hoàn toàn, đứng ở ngoài những cái cầu kỳ của vật dục. Tựa như đóa hoa thanh khiết, trong bóng bướm chập chờn, còn giữ cốt cách, nàng che mặt bằng bàn tay nhỏ nhắn…” “Em hỡi em, anh là một người, nghĩa là có nhiều tính xấu, nhưng trong vườn lòng anh, em sẽ thấy nhiều bông hoa thơm. Trên bến hôn nhân, anh đứng đợi thuyền mơ! Trời thu xanh ngắt, thuyền em nhẹ gió xuôi dòng, trên buồm đỏ, đôi chim câu bạch đậu. Chìa tay ra đón, em Uyên, anh ôm em trong hai cánh tay. Nhìn trời, sung sướng, anh ẵm em quên hết nỗi đường trường… Vai anh mang nặng, nhưng kho tàng trên vai là Uyên yêu quý, anh thấy nhẹ như lông hồng. Em là gánh nặng cho anh, nhưng là gánh nặng mà anh vui lòng, nức chí chìa vai.” (Nhật ký ngày 24/2/1940); “ Tôi sắp ra về. Nghĩ đến chị mà thương… Tôi thương chị tôi quá, chị tôi cười nói tôi cũng thương, chị tôi ẵm đứa con rù rụ nằm trong chăn tôi lại càng thương nữa.” (Nhật ký 11/9/1933); “Tôi nghe câu nói giản dị mà chứa chan tình cảm.” (20/1/1933); “ Than ôi! Tháng trước mẹ tôi mệt, nay tôi bước lên xem từ nhan mẹ tôi có thay đổi gì không?” (Nhật ký 23/1/1933)…
Những trang nhật ký giàu cảm xúc đã hé lộ cho chúng ta biết về con người của Nguyễn Huy Tưởng, một người giàu tình cảm, một người con hiếu thảo, một người em thương chị hết mực, một người chồng mẫu mực, một người cha thương con, một người bạn chân thành, sâu  sắc. Bản chất giàu xúc cảm này cũng là tiền đề để tạo nên năng lực và phẩm chất của một nhà văn lớn.

2.3. Ngôn ngữ giàu tính triết lý
Ngôn ngữ trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng rất giàu ý nghĩa triết lý. Tính triết lý này phảng phất trong toàn bộ nhật ký nhưng tần suất xuất hiện dày đặc ở phần “Nhật ký tư tưởng”. Trong phần này, tất cả những quan điểm, tư tưởng của nhà văn đã được thể hiện một cách sắc nét dưới dạng ngôn từ giàu chất triết luận. Những vấn đề triết lý ở đây cũng rất đa dạng, từ khái quát đến cụ thể. Từ triết lý về cuộc đời, về quy luật tạo hóa, đến triết lý về tôn giáo, con người, lý tưởng sống, thơ, văn, nghệ sĩ… đều được Nguyễn Huy Tưởng nghiền ngẫm và đúc kết qua những trải nghiệm thấm thía.
Đây là những dòng triết lý về quy luật tạo hóa: “Việc gì cũng có đầu, có cuối; người ta có trẻ, có già, trên đời có ngày có tối, mặt đất có lúc mới lúc sau; quả đất có hợp có biến, văn minh có lập rồi có tan. Giữa thời đầu thời cuối, ở giữa có một thời cực mạnh; trẻ thì ngơ ngẩn; già thì hiền lành, người nhớn thì hăng hái…” (Nhật ký ngày 13/5/1931).
Không chỉ triết lý về tạo hóa, Nguyễn Huy Tưởng cũng đưa ra những kinh nghiệm về sự thành, bại trong cuộc đời: “Làm việc thường hay thất bại lúc sắp thành công. Vì lúc đầu thì vẫn yên trí rằng mình vẫn phải đi đến mục đích mà mình theo. Còn đến lúc kết quả sắp đến thì lại nóng nảy muốn đến ngay, cho nên hỏng việc.” (Nhật ký 6/9/1931).
Triết lý về con người: “Người nhu mì chưa chắc đã nhu nhược; người nhu nhược chưa chắc đã nhu mì.” (Nhật ký 11/9/1931).
            “Tôi thấy  người nào cũng ác.
            Tôi thấy người nào cũng  hiền.
            Người nào cũng đáng ghét.
            Người nào cũng đáng yêu.”
            (Nhật ký 5/12/1931).
Từ cái nhìn sắc sảo về thế thái nhân tình, ông đúc rút ra những kiểu người có thể làm được việc lớn: “Người hiền thì ít người oán. Người ác thì nhiều người oán, nhưng thường năng dùng được người, vì người ác chỉ có ác thì người theo xử dễ. Nhưng có hạng người không hiền, không ác, tính tốt lẫn với tính xấu, những hạng người này ít dùng được ai hay, vì kẻ theo khó xử, vì tâm tính của hạng người ấy bất đồng. Bởi vậy, người thật hiền và thật ác thường là hai hạng người hay làm được những việc to tát.” (Nhật ký 16/9/1931).
Là một nhà văn luôn tâm huyết với nghiệp cầm bút, Nguyễn Huy Tưởng cũng có những phát biểu xác đáng về văn chương: “Văn chương phải có tính cách thanh nhã… Văn chương phải chú trọng về phương diện xã hội. Chứ nếu văn chương chú trọng về cá nhân thì loài chó, loài mèo cũng có một nền văn chương vậy.” (Nhật ký 3/1/1932); “Lối thơ hay là thích hợp với tính tình của dân, với cái triết lý của dân, với sự ăn ở của dân.” (Nhật ký 16/1/1932).
Cùng với quan điểm về văn chương, Nguyễn Huy Tưởng cũng bàn về văn sĩ, thi sĩ: “Người thi sĩ thần là người lọt ở lòng dân ra. Người thi sĩ bá là người lọt ở trí dân ra.” (Nhật ký 16/1/1932); “Người làm văn có ngồi vào bàn, cầm bút viết mới nghĩ ra tư tưởng, mới nảy ra ý tứ.” (Nhật ký 21/2/1932).

 Những triết lý sâu sắc về nhiều vấn đề của đời sống trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đã tạo nên sức hấp dẫn và chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Đọc những dòng nhật ký được viết ra từ gan ruột, chúng ta mới thấy được đầy đủ chân dung của một người nghệ sĩ lớn không chỉ ở tài năng, nhân cách mà còn ở lý tưởng, hoài bão, ước mơ.

2.4. Ngôn ngữ chân thực xác tín
Xuất phát từ những ghi chép cá nhân, nhưng phẩm chất văn học đã biến một số nhật ký trở thành những tác phẩm văn học với những đặc tính và giá trị độc lập có thể trở thành một thể loại văn học. Nhưng do đặc thù viết cho mình, của mình, hướng tới mình mà trong những trang nhật ký, người viết luôn là chính mình mà không bị ràng buộc bởi bất kì thế lực hay chế độ nào, lúc ấy chính là lúc tác giả đã ghi lại những dòng chữ mang giá trị lịch sử và giá trị tư liệu quý giá.

Chẳng hạn, trong nhật ký ngày 24/8/1951, Nguyễn Huy Tưởng có thổ lộ: “Không thú cảnh khu 3. Ở khu 3, cuộc sống quá khó khăn, có những người đã lưu manh hóa. Do hậu quả của bom đạn, bão lụt, cuộc sống quá khổ cực nên con người ta trở nên xấu.” Không chỉ có vậy, ông còn quan sát và ghi chép lại một cách chân thực tình hình trong nước, tình hình thế giới vào những trang nhật ký của mình. Chẳng hạn, “Cuộc cải cách đợt 5, đáng lẽ làm cho nhân dân phấn khởi thì đã gây bao nhiêu xót thương.” (Nhật ký ngày 9/7/1956);  “Tình hình khó khăn. Không khí nặng nề. Nông thôn căng thẳng. Thành phố nhôn nhao vì vấn đề hộ khẩu. Chính sách kinh tế tài chính có nhiều khuyết điểm. Công nhân mỏi mệt.” (Ngày 20/7/1956) ; “Cảm thấy một sự gì oi bức trong đời sống. Cán bộ còn chật vật thế này, thì nhân dân bị ràng buộc biết mấy. Đời sống ở các khu chưa được bình thường.” (Ngày 5/7/1956)…  

Trong những trang nhật ký được viết từ gan ruột, Nguyễn Huy Tưởng đã tỉ mỉ ghi chép lại biết bao sự kiện, biến động dồn dập không chỉ với cá nhân mà còn với thời đại bằng thứ ngôn từ chân thực và xác tín. Chẳng hạn, những vấn đề như: Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, cải cách ruộng đất, những cuộc tranh luận văn nghệ… Đây là những sự kiện quan trọng được nhà văn tái hiện khá đầy đủ với vị thế của một người trong cuộc. Trước những vấn đề bức xúc của đất nước, những sự kiện phức tạp trong và ngoài văn nghệ, với trách nhiệm của người nghệ sĩ - công dân, Nguyễn Huy Tưởng đã lên tiếng bằng nhiều cách, như viết bài tùy bút Một ngày chủ nhật một thời gây dư luận, hoặc thậm chí viết thư thẳng cho những người có trách nhiệm như các ông Trường Chinh, Lê Liêm, Hồ Viết Thắng… Nhưng vẫn còn không ít những nỗi niềm không thể nói ra, ông trút cả vào nhật ký. Hơn 40 tập nhật ký viết tay (tương ứng với 3 tập nhật ký xuất bản) chính là phản ảnh của một tâm hồn không bình lặng, luôn trăn trở suy tư về cuộc sống. Những vấn đề này được nhìn nhận một cách khách quan và thẳng thắn mà ít có thể loại nào có thể đạt tới độ chân thực như vậy.

Mục đích của nhật ký là giao lưu với chính mình, là tiếng nói phân thân của người viết, bởi vậy tính riêng tư, tính xác thực là yếu tố khiến nhật ký thu hút hơn các thể loại tự sự, trữ tình hay kịch cũng như là lý do để nhật ký tồn tại. Hơn bao giờ hết, những bí mật của người khác, nhất là những góc khuất chưa được công bố của sự kiện hay nhân vật mang tầm ảnh hưởng xã hội vẫn luôn khơi gợi trí tò mò nhất của bạn đọc và công chúng. Về mặt này, Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đã mở ra biết bao thông tin quý giá về một thời đại gian khổ, hào hùng nhưng cũng còn biết bao vấn đề mà đến nay chúng ta phải thẳng thắn nhìn lại. Có lẽ chính yếu tố này cũng là một trong những lý do tạo nên sức hút trong nhật ký của ông.

Sức thu hút của nhật ký văn học không chỉ phụ thuộc vào cảm xúc của cái “Tôi” trước hiện thực đời sống đang xảy ra mà còn chịu sự chi phối của khuynh hướng thẩm mĩ cũng như đạo đức của người viết. Yếu tố tâm tình, trò chuyện biểu cảm của cái tôi trong nhật ký là một trong những điều ta không thể phủ nhận. Vì thế, cái “Tôi” trong nhật ký văn học không đơn thuần chỉ ghi chép máy móc, thụ động về hiện thực cuộc sống và con người mà cái “Tôi” ấy phải có khả năng sáng tạo nghệ thuật. Dường như có một sự ý thức thường trực về điều này, ngôn từ trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng không chỉ đảm bảo tính xác thực của đối tượng miêu tả mà còn có tiếng nói của cảm xúc góp phần bồi đắp hình tượng làm cho nó thêm phong phú đa diện.

2.5. Ngôn ngữ dằn vặt, tra vấn
Nhật ký là hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất được thực hiện dưới dạng những ghi chép hàng ngày theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả hay nhân vật chính là người trực tiếp tham gia hay chứng kiến. Nhật ký là thể loại độc thoại, song lời độc thoại của tác giả hoặc nhân vật lại có thể là cuộc đối thoại ngầm với chính mình về con người và cuộc đời nói chung và về chính bản thân mình nói riêng.

Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng xuất hiện rất nhiều đoạn độc thoại mang dáng dấp của đối thoại với ý thức dằn dặt, tra vấn. Vốn là người cả nghĩ, lại luôn có trách nhiệm với công việc, với cuộc sống, không khi nào Nguyễn Huy Tưởng thanh thản bằng lòng với mình, bởi thế những trang nhật ký của ông luôn thể hiện sự băn khoăn, lo lắng, áy náy, tra vấn... Những day dứt, dằn vặt này được tạo nên từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn: “Lại tự giận mình, lại đau đớn, lại bàng hoàng. Về đến nhà chẳng vui, càng thấy áy náy không yên.” (Nhật ký 19/1/1933); “Ôi đức hạnh của ta có lui chứ không có tiến: Lòng từ bi bác ái ta không có, tính ích kỷ của ta thì nhiều, hay hờn, hay giận, hay cáu, hay khinh người, không tự hiểu cái phận của mình, tự tỉ như mình đã cao đâm ra xấc láo, đã như vậy lại thêm cái hèn hạ nhút nhát, không có một chút ý chí năng lực nào.” (Nhật ký 24/3/1931); “Nghĩ đến mẹ già ngóng trông cái kết quả của ta mà tự mình như xót xa. Nghĩ đến anh chị em lo cho thân ta mà lòng như bị xâu xé. Lấy chi mà đền ơn dưỡng dục?” (Nhật ký 28/3/1932); “Dự một kỳ hội đồng của Hướng đạo. Sao ta lại ngần ngừ? Sao ta lại uể oải?” (Nhật ký 18/2/1940); “Than ôi, cái đời làm con của tôi chỉ là một đời khốn nạn. Và cách tính toán trên đường đời của tôi chỉ là một tràng hạt lỗi lầm!” (Nhật ký 24/2/1940); “Nóng ruột về công việc. Cuộc đời ta, sao ta cứ để cho nó trôi đi, không chủ động được nó?” (Nhật ký 16/4/1959); “Rất lo ngại cho các sáng tác của mình. Ít personalité [cá tính]. Kiểm điểm lại. Không có gì. Cái gì đang phải làm. Cảm thấy ít  sống. Ít kinh nghiệm. Ít kỹ thuật. Văn khô khan. Ít bay bổng. Ít màu sắc.” (Nhật ký 29/6/191959).
Nguyễn Huy Tưởng thường đặt mình trong trạng thái dằn vặt không yên. Đọc nhật ký của ông, ta thấy ông luôn trăn trở về trách nhiệm làm con mà chưa báo hiếu được mẹ già, ông day dứt đến khổ sở khi đã tốt nghiệp Thành chung mà vẫn phải xin mẹ từng đồng để mua giấy, có lúc ông lại áy náy vì thương chị mà lực bất tòng tâm, cũng có lúc ông lại cảm thấy có lỗi với vợ vì mình nóng giận, với nhân dân, ông tự trách cứ mình khi đã đi “ba cùng” với bà con nông dân nhưng có lúc vẫn phải ra ngoài ăn bát bún riêu vì lo lắng cho sức khỏe bản thân… Song, có lẽ sự dằn vặt lớn nhất đó là sự trăn trở của người nghệ sĩ về chất lượng tác phẩm nghệ thuật của mình. Sự băn khoăn này ta có thể bắt gặp trong bất cứ tập nhật ký nào trong chặng đường cầm bút của ông. Ông đã nghiêm túc đến khắc kỷ đối với bản thân để đòi hỏi mình phải không ngừng nỗ lực hơn nữa nhằm tạo ra những tác phẩm có chất lượng. Đây là sự trăn trở của một người cầm bút luôn đặt ý thức trách nhiệm đối với nghề nghiệp lên trên hết.

Ngôn từ dằn vặt, tra vấn đã mở ra trước mắt bạn đọc một cái tôi với một tâm hồn không bình lặng. Trong cái tôi ấy luôn chứa đựng những mâu thuẫn nội tại, những cuộc tranh đấu về tư tưởng, những cuộc vượt thoát khỏi giới hạn của mình để vươn tới một tầm mức lớn lao hơn. Điều này đã thể hiện ý thức trau dồi, tôi luyện chính bản thân mình không ngừng nghỉ để hướng tới cái đích cao hơn trong sự nghiệp, trong công việc cũng như trong nhân cách của nhà văn.

2.6. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Xuất thân là một nhà văn chuyên nghiệp, tôn trọng ngôn ngữ và trau chuốt ngôn từ là một phẩm chất không thể thiếu đối với người sẵn mang trong mình tình yêu văn chương và có lương tâm với nghiệp cầm bút như Nguyễn Huy Tưởng. Không khó để có thể nhận ra chất thơ trong những đoạn ghi chép giàu tính tạo hình, giàu tính thẩm mĩ và giàu nhạc tính của Nguyễn Huy Tưởng. Đọc những trang nhật ký của ông, không ít đoạn có kết cấu hài hòa, đăng đối, ngôn từ trau chuốt mềm mại không khác gì một bài phú hay văn đối ngẫu. Chẳng hạn: “Thân phận ta sao mà lận đận. Cũng sinh ra là kiếp nam nhi, cũng sinh ra là người học thức. Mà công danh trắc trở, cảnh ngộ gian truân. Đường thế gập ghềnh, luống những đêm ngày khắc khoải, bình sinh chẳng gặp, luống những thời khắc băn khoăn!
Kìa ngắm trông ra xã hội. Kẻ dốt ngênh ngang, hung đồ gặp bước. Mà ngắm lại thân mình thì, ăn chực nằm chờ, nghe lời xỉa xói; ngoảnh đi ngoảnh lại, bơ vơ là kẻ thơ sinh.” (Nhật ký 17/12/1932). Hoặc “Giời đổ rét, gió thổi mạnh, nhưng thái dương soi sáng, cây cỏ đua vui, cảnh nhà êm thấm…” (Nhật ký 26/1/1933). Hay “Cần phải kiềm chế lòng mình. Vội như chết mà vẫn thản nhiên. Thơ vợ đến mà chưa cần bóc. Việc đáng mừng mà không lộ sắc. Việc mong chờ mà không sốt ruột. Việc sốt sắng mà không vội vàng.” (Nhật ký 15/1/1942).

Ngôn ngữ giàu chất thơ còn bộc lộ ở những đoạn tuyệt bút miêu tả cảnh trí non sông đất nước. Chẳng hạn, trên đường đi chiến dịch, ông chăm chú quan sát những cảnh tượng xung quanh để rồi ghi lại vào nhật ký của mình: “Lên dốc mạnh. Đá cuội trắng óng ánh. Vị thế núi đẹp. Mây trắng chắn ngang sườn. Vách đá một bên. Có câu viết trên vách: Bể ái nguồn ân khôn xiết kể, xa xôi nghỉ mát tí cô ơi. Thỉnh thoảng có vòi nước chảy bên đường, trong vắt. Lắm lúc như đi vào đồn điền. Mưa. Lắm lúc toàn hơi nước, xóa hết núi, lờ mờ hình đỉnh núi trong mây.” (Nhật ký ngày 24/7/1950). “Đường đẹp. Đi lạnh. Rừng xứ ôn đới sạch sẽ. Núi cao. Phong cảnh thay đổi luôn luôn. Thung lũng sâu, thác chảy bọt trắng xóa. Ve kêu. Có chỗ núi mọc lởm chởm hình tháp bút, xanh sẫm trên những núi đồi màu mạ. Những xe bò nằm rúc trong bụi.” (Nhật ký ngày 25/7/1950). “Những vách núi trông như động chùa. Có chỗ sâu hoắm vào, hai con bò nằm nhai lại. Thỉnh thoảng bên đường, một cô Mán đỏ đứng bán mooc coọc. Mán áo đỏ hôm nay đi nhiều. Đàn bà mặc lòe loẹt. Đầu cạo trọc, chít khăn vành dây đen đỏ, hai bên cổ áo có những bông đỏ…” (Nhật ký ngày 26/7/1950). “Xa xa, dưới chân: thung lũng. Xanh núi, ruộng mạ, ruộng nâu, nhà lợp ngói xám, đen. Màu sắc rực rỡ. Tài liệu cho sơn dầu. Đèo cao. Đỉnh núi. Giang sơn Mán. Những người Mán đi về, áo xanh, đội khăn, đầu cạo trọc để chỏm tóc dài phần nhiều không biết nói tiếng Kinh…” (Nhật ký ngày 27/7/1950).
Hay một đoạn khác: “Đường đi râm. Nhiều cây chó đẻ. Nhiều lau sậy. Dốc cao, dưới vực sâu, suối chảy ầm ầm. Thỉnh thoảng, một vạt ruộng, rực rỡ. Một đồi gianh rực sáng. Núi đá bên đường.
Thỉnh thoảng, xa xa, núi mở ra để lộ, lửng lơ, một đám ruộng óng ánh, như một vệt mây hồng.” (Nhật ký 5/11/1958).

Loại ngôn ngữ này đã hé lộ một tâm hồn nghệ sĩ dạt dào xúc cảm, dễ rung động trước cảnh vật non sông và miêu tả lại được cái hồn của cảnh vật bằng thứ ngôn ngữ trữ tình, sâu  lắng. Thực ra, bản thân loại ngôn ngữ đó đã chứa đựng những nguồn năng lượng tiềm ẩn nhưng khi được đặt trong bối cảnh lịch sử nói chung của dân tộc và tiểu sử cá nhân của tác giả thì nó lại phát huy tối đa khả năng biểu cảm, biểu nghĩa.

3. Kết luận
Song hành với cuộc đời cầm bút sáng tạo văn học, những trang nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đã thực sự mang lại những giá trị cao quý đáng trân trọng. Sức hấp dẫn từ hơn 1.700 trang nhật ký trước hết là yếu tố ngôn từ. Toát lên trong toàn bộ nhật ký là loại ngôn từ hướng nội, ngôn từ giàu ý nghĩa triết lý, ngôn từ dằn vặt tra vấn, ngôn từ giàu chất thơ. Những đặc trưng này đã giúp ta một lần nữa thấy được tính thống nhất trong sự đa dạng của ngôn từ nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, từ đó thấy được tài năng nghệ thuật của ông ngay cả trong những trang viết tự nhiên nhất vốn dĩ không phải là để công bố với bạn đọc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Lại Nguyên Ân  (biên soạn), (1999),  150 thuật ngữ văn học; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  2. Đức Dũng (2003), Ký văn học và ký báo chí; Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
  3. Hà Minh Đức  (1980), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội; Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
  4. Trần Đình Sử ( chủ biên), La khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2008), Lí luận văn học, phần tác phẩm và thể loại văn học, tập 2; Nxb Đại học Sư phạm.
  5.   Nguyễn Huy Thắng (biên soạn) (2006), Nguyễn Huy Tưởng nhật ký, tập I,II,III; Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Bài đăng trên tạp chí Khoa học xã hội số 10 (95/2015)
0969889270 0912944324